Thế Giới Nợ Tôi Một Mối Tình Đầu

Thế Giới Nợ Tôi Một Mối Tình Đầu

Đọc bài “Vô cùng bức xúc vì 27 tuổi đã bị đồn thổi là gái ế” của Vân Hằng mà tôi thấy ít nhiều có bóng dáng của mình trong đó. Có thể nói, năm nay tôi cũng ở độ tuổi như bạn Vân Hằng đây. Nói chính xác là tôi kém bạn Vân Hằng 1 tuổi. Song bao năm đi học và đi làm, tôi không biết làm sao để nổi bật, để thu hút người khác phái. Chính bởi thế, 26 tuổi mà tôi chưa có một mối tình vắt vai là thế.

Đọc bài “Vô cùng bức xúc vì 27 tuổi đã bị đồn thổi là gái ế” của Vân Hằng mà tôi thấy ít nhiều có bóng dáng của mình trong đó. Có thể nói, năm nay tôi cũng ở độ tuổi như bạn Vân Hằng đây. Nói chính xác là tôi kém bạn Vân Hằng 1 tuổi. Song bao năm đi học và đi làm, tôi không biết làm sao để nổi bật, để thu hút người khác phái. Chính bởi thế, 26 tuổi mà tôi chưa có một mối tình vắt vai là thế.

bài thơ tình Song Ngữ Việt – Đức

Một giấc mơ đáng sợ Vừa sợ vừa buồn cười Có vẻ từ ngày đó Tôi không còn là tôi.

Đó là một khu vườn Nơi mà tôi đi dạo Những bông hoa nở bừng Lòng tôi vui biết mấy.

Có chim hót trên cành Những lời rất âu yếm Ánh mặt trời vàng óng Đang rót xuống vườn xanh.

Hoa cỏ tỏa mùi hương Ngạt ngào trong cơn gió Dường như tất, tất cả Khoe vẻ đẹp của mình.

Giữa hoa cỏ màu xanh Có một đài phun nước Một cô gái xinh đẹp Đang ngồi giặt áo quần.

Đôi má đỏ, môi hồng Và mái tóc vàng óng Đôi mắt tôi tìm kiếm Nét vừa lạ vừa quen.

Nàng vừa giặt áo quần Vừa cất lên tiếng hát: “Chảy đi, ơi dòng nước Giặt cho sạch cho nhanh”.

Thấy vậy, tôi đến gần “Em ơi, cho tôi hỏi Thì thầm thôi, có phải Em giặt áo cho chồng?”

Nàng trả lời rất nhanh: “Áo quan cho anh đấy!” Nói xong lời như vậy Nàng liền biến mất tăm.

Và tôi đến khu rừng Tối tăm và hoang dã Đầy cây cao bóng cả Thấy ngạc nhiên vô cùng.

Tiếp sau sự ngạc nhiên Nghe rõ ràng tiếng búa Giữa khu rừng hoang dã Tôi bước đi vội vàng.

Bỗng thấy giữa khu rừng Có một cây sồi lớn Một cô gái bên cạnh Tay cầm búa lăm lăm.

Nàng vung búa không ngừng Vừa chặt cây vừa hát: “Búa của ta bằng sắt Hãy đóng nhanh chiếc hòm”.

Tôi lại bước đến gần “Em ơi, cho anh hỏi Ai bắt em làm vậy Sao lại đi đóng hòm?”

Nàng lại trả lời nhanh: “Đóng hòm cho anh đấy!” Và y hệt lúc nãy Nàng lại biến mất tăm.

Xung quanh đều tối đen Khắp nơi đều trống vắng Chẳng biết điều gì đến Tôi cảm thấy rùng mình.

Tôi tiếp tục lang thang Thấy một dải màu trắng Liền vội vàng bước đến Và tôi lại thấy nàng.

Mặc áo quần trắng tinh Trong tay cầm chiếc xẻng Nàng, theo tôi cảm nhận Vừa đẹp vừa kinh hoàng.

Còn người đẹp vội vàng Vừa đào đất vừa hát “Xẻng của ta rộng, sắc Hãy đào huyệt cho nhanh”.

Tôi lại bước đến gần “Em ơi, cho anh hỏi Em dễ thương như vậy Sao đào huyệt để chôn?”

Nàng trả lời vội vàng: “Huyệt để chôn anh đấy!” Sau những lời như vậy Miệng huyệt đã mở toang.

Đưa mắt nhìn vào trong Tôi rùng mình khủng khiếp Bỗng tôi ngã xuống huyệt – Và chợt tỉnh giấc nồng.

Ein Traum, gar seltsam schauerlich

Ein Traum, gar seltsam schauerlich, Ergötzte und erschreckte mich. Noch schwebt mir vor manch grausig Bild, Und in dem Herzen wogt es wild.

Das war ein Garten, wunderschön, Da wollt ich lustig mich ergehn; Viel schöne Blumen sahn mich an, Ich hatte meine Freude dran.

Es zwitscherten die Vögelein Viel muntre Liebesmelodein; Die Sonne rot, von Gold umstrahlt, Die Blumen lustig bunt bemalt.

Viel Balsamduft aus Kräutern rinnt, Die Lüfte wehen lieb und lind; Uns alles schimmert, alles lacht, Und zeigt mir freundlich seine Pracht.

Inmitten in dem Blumenland Ein klarer Marmorbrunnen stand; Da schaut ich eine schöne Maid, Die emsig wusch ein weißes Kleid.

Die Wänglein süß, die Äuglein mild, Ein blondgelocktes Heilgenbild; Und wie ich schau, die Maid ich fand So fremd und doch so wohlbekannt.

Die schöne Maid, die sputet sich, Sie summt ein Lied gar wunderlich: »Rinne, rinne, Wässerlein, Wasche mir das Linnen rein.«

Ich ging und nahete mich ihr, Und flüsterte: O sage mir, Du wunderschöne, süße Maid, Für wen ist dieses weiße Kleid?

Da sprach sie schnell: Sei bald bereit, Ich wasche dir dein Totenkleid! Und als sie dies gesprochen kaum, Zerfloß das ganze Bild, wie Schaum. –

Und fortgezaubert stand ich bald In einem düstern, wilden Wald. Die Bäume ragten himmelan; Ich stand erstaunt und sann und sann.

Und horch! welch dumpfer Widerhall! Wie ferner Äxtenschläge Schall; Ich eil durch Busch und Wildnis fort, Und komm an einen freien Ort.

Inmitten in dem grünen Raum, Da stand ein großer Eichenbaum; Und sieh! mein Mägdlein wundersam Haut mit dem Beil den Eichenstamm.

Und Schlag auf Schlag, und sonder Weil, Summt sie ein Lied und schwingt das Beil: »Eisen blink, Eisen blank, Zimmre hurtig Eichenschrank.«

Ich ging und nahete mich ihr, Und flüsterte: O sage mir, Du wundersüßes Mägdelein, Wem zimmerst du den Eichenschrein?

Da sprach sie schnell: Die Zeit ist karg, Ich zimmre deinen Totensarg! Und als sie dies gesprochen kaum, Zerfloß das ganze Bild, wie Schaum. –

Es lag so bleich, es lag so weit Ringsum nur kahle, kahle Heid; Ich wußte nicht, wie mir geschah, Und heimlich schaudernd stand ich da.

Und nun ich eben fürder schweif, Gewahr ich einen weißen Streif; Ich eilt drauf zu, und eilt und stand, Und sieh! die schöne Maid ich fand.

Auf weiter Heid stand weiße Maid, Grub tief die Erd mit Grabescheit. Kaum wagt ich noch sie anzuschaun, Sie war so schön und doch ein Graun.

Die schöne Maid, die sputet sich, Sie summt ein Lied gar wunderlich: »Spaten, Spaten, scharf und breit, Schaufle Grube tief und weit.«

Ich ging und nahete mich ihr, Und flüsterte: O sage mir, Du wunderschöne, süße Maid, Was diese Grube hier bedeut’t?

Da sprach sie schnell: »Sei still, ich hab Geschaufelt dir ein kühles Grab.« Und als so sprach die schöne Maid, Da öffnet sich die Grube weit;

Und als ich in die Grube schaut, Ein kalter Schauer mich durchgraut; Und in die dunkle Grabesnacht Stürzt ich hinein – und bin erwacht.

Bạn tôi ơi, phạm thượng! Khi bạn làm điều này: Bỏ Hanne tròn lẳn Để yêu Marianne gầy!

Nếu yêu thịt – thì bạn Được coi là bình thường Còn phóng đãng với xương Điều này là ghê tởm.

Quỉ Sa tăng nham hiểm Đưa ta vào bẫy đây Giống như người ăn mặn Bỗng dưng thích ăn chay.

Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig

Welcher Frevel, Freund! Abtrünnig Wirst du deiner fetten Hanne, Und du liebst jetzt jene spinnig Dürre, magre Marianne!

Läßt man sich vom Fleische locken, Das ist immer noch verzeihlich; Aber Buhlschaft mit den Knochen, Diese Sünde ist abscheulich!

Das ist Satans böse Tücke, Er verwirret unsre Sinne: Wir verlassen eine Dicke, Und wir nehmen eine Dünne!

Em thân yêu, một mai này em chết Người ta chôn em trong mộ tối đen Thì khi đó anh sẽ chui xuống huyệt Không sợ gì, anh ôm chặt lấy em.

Anh ghì em vào sát ngực và hôn Lên cái xác lạnh lẽo và câm nín Anh khóc lên, run rẩy và ngã xuống Anh cũng trở thành xác chết như em.

Khi đêm đến những âm hồn thức dậy Họ cùng nhau nhảy múa, cả đám đông. Nhưng anh và em nằm yên ở đấy Anh trong vòng tay ôm chặt của em.

Ngày Phán xét kèn gọi những âm hồn Ai sẽ được lặng yên, ai đau khổ Nhưng anh và em, hai đứa chẳng cần Ôm lấy nhau ta nằm yên trong mộ.

Mein süßes Lieb, wenn du im Grab

Mein süßes Lieb, wenn du im Grab, Im dunkeln Grab wirst liegen, Dann will ich steigen zur dir hinab, Und will mich an dich schmiegen.

Ich küsse, umschlinge und presse dich wild, Du Stille, du Kalte, du Bleiche! Ich jauchze, ich zittre, ich weine mild, Ich werde selber zur Leiche.

Die Toten stehn auf, die Mitternacht ruft, Sie tanzen im luftigen Schwarme; Wir beide bleiben in der Gruft, Ich liege in deinem Arme.

Die Toten stehn auf, der Tag des Gerichts Ruft sie zu Qual und Vergnügen; Wir beide bekümmern uns um nichts, Und bleiben umschlungen liegen.

Tôi nghĩ đến nhà em Khi đi trên đường phố Em ơi tôi rất mừng Thấy em qua cửa sổ.

Đôi mắt nâu của em Nhìn tôi như dò hỏi: “Anh là ai, người lạ Tại vì sao anh buồn?”

“Tôi là nhà thơ Đức Nổi tiếng ở xứ này Ai nhớ người nổi nhất Người này nhớ đến tôi.

Có nhiều người như tôi Đang buồn ở nước Đức Ai người đau khổ nhất Hiểu tôi buồn đến đâu”.

Wenn ich an deinem Hause Des Morgens vorübergeh, So freut’s mich, du liebe Kleine, Wenn ich dich am Fenster seh.

Mit deinen schwarzbraunen Augen Siehst du mich forschend an: Wer bist du, und was fehlt dir, Du fremder, kranker Mann?

„Ich bin ein deutscher Dichter, Bekannt im deutschen Land; Nennt man die besten Namen, So wird auch der meine genannt.

Und was mir fehlt, du Kleine, Fehlt manchem im deutschen Land; Nennt man die schlimmsten Schmerzen, So wird auch der meine genannt“.

Anh không tin thiên đàng Không tin lời linh mục Chỉ tin đôi mắt em – Là bầu trời hạnh phúc.

Anh không tin Chúa Trời Không tin lời linh mục Chỉ trái tim em thôi Không thánh thần nào khác.

Anh không tin những hồn Bị đày nơi địa ngục Chỉ tin đôi mắt em Và con tim tai ác.

Ich glaub nicht an den Himmel, Wovon das Pfäfflein spricht; Ich glaub nur an dein Auge, Das ist mein Himmelslicht.

Ich glaub nicht an den Herrgott, Wovon das Pfäfflein spricht; Ich glaub nur an dein Herze, ‘nen andern Gott hab ich nicht.

Ich glaub nicht an den Bösen, An Höll und Höllenschmerz; Ich glaub nur an dein Auge, Und an dein böses Herz.

Ai là kẻ mới biết yêu lần đầu Cứ đau khổ đi – ngươi là Thượng Đế Nhưng ai người đã yêu lại lần sau Còn đau khổ quả là không biết nghĩ.

Tôi đang yêu – tôi người không biết nghĩ Đi yêu người nhưng người chẳng yêu tôi. Sao cười tôi, cả mặt trời cũng thế Tôi cũng cười nhưng cười để chết thôi.

Wer zum ersten Male liebt, Seis auch glücklos, ist ein Gott; Aber wer zum zweiten Male Glücklos liebt, der ist ein Narr.

Ich, ein solcher Narr, ich liebe Wieder ohne Gegenliebe! Sonne, Mond und Sterne lachen, Und ich lache mit – und sterbe.

Trong nhà em đêm hội Cửa sổ sáng chói loà Bóng dáng em sôi nổi Anh đứng nhìn từ xa.

Nhưng em không nhìn thấy Anh đang đứng trong đêm Lại càng không nhìn thấy Trong mắt anh nỗi buồn.

Con tim yêu đau đớn Dòng máu nóng tuôn trào Tim vỡ ra từng mảng… Em cũng chẳng thấy đâu.

Sie haben heut Abend Gesellschaft

Sie haben heut abend Gesellschaft, Und das Haus ist lichterfüllt. Dort oben am hellen Fenster Bewegt sich ein Schattenbild.

Du schaust mich nicht, im Dunkeln Steh ich hier unten allein; Noch wenger kannst du schauen In mein dunkles Herz hinein.

Mein dunkles Herze liebt dich, Es liebt dich und es bricht, Und bricht und zuckt und verblutet, Aber du siehst es nicht.

Hai người trước lúc chia xa Cùng bắt tay nhau tạm biệt Cả hai cùng thổn thức Và những giọt lệ tuôn ra.

Khi chia xa cả em và anh Hai ta không nức nở Nhưng nước mắt đau khổ Đã tuôn ra sau đó – và một mình.

Wenn zwei von einander scheiden

Wenn zwei voneinander scheiden, So geben sie sich die Händ, Und fangen an zu weinen, Und seufzen ohne End.

Wir haben nicht geweinet, Wir seufzten nicht weh und Ach! Die Tränen und die Seufzer, Die kamen hintennach.

Anh biết em yêu anh Và từ lâu đã rõ Nhưng khi em thổ lộ Anh không khỏi giật mình.

Anh trèo lên ngọn núi Hát ca và vui mừng Bên biển giờ hoàng hôn Anh đã tuôn dòng lệ.

Tim anh giống mặt trời Lửa cháy bừng như thế To lớn và tráng lệ Giữa biển tình đang bơi.

Daß du mich liebst, das wußt ich

Daß du mich liebst, das wußt ich, Ich hatt es längst entdeckt; Doch als du mir ‘s gestanden Hat es mich tief erschreckt.

Ich stieg wohl auf die Berge Und jubelte und sang; Ich ging ans Meer und weinte Beim Sonnenuntergang.

Mein Herz ist wie die Sonne So flammend anzusehn, Und in en Meer von Liebe Versinkt es groß und schön.

Tôi mơ thấy con gái của nữ hoàng Dòng nước mắt trên má nàng tái nhợt Chúng tôi ngồi dưới hàng cây râm mát Không ngại ngần, tôi ôm chặt lấy em.

“Anh không cần ngai vàng của cha em Anh không cần trang sức vàng hay bạc Không cần vương quốc, không cần gì hết Anh chỉ muốn em, anh chỉ cần em”.

“Nhưng mà điều này không được rồi anh Em từ lâu đã nằm yên trong mộ Chỉ hằng đêm em đến đây là bởi Vì em yêu anh, vì em yêu anh”.

Mir träumte von einem Königskind

Mir träumte von einem Königskind’, Mit nassen, blassen Wangen; Wir saßen unter der grünen Lind’, Und hielten uns liebumfangen.

„Ich will nicht deines Vaters Thron, Ich will nicht sein Scepter von Golde, Ich will nicht seine demantene Kron’, Ich will dich selber, du Holde!“

Das kann nicht seyn, sprach sie zu mir, Ich liege ja im Grabe, Und nur des Nachts komm’ ich zu dir, Weil ich so lieb dich habe.

Giữa đồng cỏ hoang sơ Giữa hoa hồng thơm ngát Láu lỉnh và khù khờ Yêu nhau theo đủ cách Trong nghệ thuật tình yêu Bậc thầy là người Pháp.

Còn chúng ta hiểu nhau Người Đức chỉ biết ghét Chất chứa ở trong đầu Hận thù như thuốc độc Giá như mà đem rót Thùng Hai-đơ-béc bé teo*. ________________ *Thùng ở Heidelberg – là một chiếc thùng cực lớn bằng gỗ sồi có dung tích 212.422 lít dùng để ủ rượu vang được đặt ngầm dưới một tòa lâu đài. Đây là một danh thắng nổi tiếng của thành phố Heidelberg.

Diesseits und jenseits des Rheins

Sanftes Rasen, wildes Kosen, Tändeln mit den glühnden Rosen, Holde Lüge, süßer Dunst, Die Veredlung roher Brunst, Kurz, der Liebe heitre Kunst – Da seid Meister ihr, Franzosen!

Aber wir verstehn uns baß, Wir Germanen, auf den Haß. Aus Gemütes Tiefen quillt er, Deutscher Haß! Doch riesig schwillt er, Und mit seinem Gifte füllt er Schier das Heidelberger Faß.

Thùng Hai-đơ-béc NƯỚC ĐỨC QUÊ HƯƠNG TÔI

Nước Đức quê hương tôi Đâu cũng có cây đời Trái chín mọng, nhưng khổ Hình nộm dọa khắp nơi.

Ta như bầy chim sẻ Sợ yêu tinh, quỉ sứ Nhìn anh đào nở hoa Mà đành lòng nín chịu.

Anh đào đỏ, nhưng hột Bên trong là cái chết Chỉ ở trên trời cao Có anh đào không hột.

Chúa Cha – Con – Thánh thần Mà hồn ta ngợi khen Khát khao cái vĩnh cửu Linh hồn Đức đáng thương.

Chỉ nơi có thiên thần Là hạnh phúc muôn năm Còn ở đây đau khổ Anh đào cũng chua lòm.

Im lieben Deutschland daheime, Da wachsen viel Lebensbäume; Doch lockt die Kirsche noch so sehr, Die Vogelscheuche schreckt noch mehr.

Wir lassen uns wie Spatzen Einschüchtern von Teufelsfratzen; Wie auch die Kirsche lacht und blüht, Wir singen ein Entsagungslied:

Die Kirschen sind von außen rot, Doch drinnen steckt als Kern der Tod; Nur droben, wo die Sterne, Gibts Kirschen ohne Kerne.

Gott Vater, Gott Sohn, Gott heiliger Geist, Die unsere Seele lobt und preist – Nach diesen sehnet ewiglich Die arme deutsche Seele sich.

Nur wo die Engel fliegen, Da wächst das ewge Vergnügen; Hier unten ist alles Sünd und Leid Und saure Kirsche und Bitterkeit.

Thân thể người phụ nữ Quả là một bài thơ Do Thượng Đế tạo ra Từ ngày đầu sáng tạo.

Trong một giờ nào đấy Ngài đã rất vui mừng Từ vật liệu đầu tiên Ngài bắt đầu làm chủ.

Cơ thể người phụ nữ Quả là một bài ca Mà lời ca tuyệt vời Không gì hơn được nữa.

Ý tưởng của Thượng Đế Chính là chiếc cổ trần Chính là mái tóc xoăn Đặt ở trên đầu nhỏ.

Núm vú như nụ hồng Là bài thơ trào phúng Đẹp ngoài sự tưởng tượng Là lạch nhỏ cách ngăn.

Ngài tạo ra cặp đùi Như làm bằng nhựa dẻo Đằng sau chiếc lá vả Là nơi chốn tuyệt vời.

Thơ Ngài không trìu tượng Có da thịt, tay chân Biết cười và biết hôn Bằng bờ môi âu yếm.

Thơ ở trong mọi chỗ Thơ ở từng bước đi Trên trán của bài ca Đẹp đến mức hoàn mỹ.

Con khen Ngài, Thượng Đế Trước Ngài, xin cúi mình! So với Nhà thơ Thiên Con chỉ đồ cẩu thả.

Con muốn chìm – Lạy Chúa! Trong tác phẩm của Ngài Suốt cả đêm cả ngày Con miệt mài nghiên cứu.

Suốt cả đêm cả ngày Con không ngừng tìm hiểu Đôi chân con gầy yếu Vì sự nghiên cứu này.

Des Weibes Leib ist ein Gedicht, Das Gott der Herr geschrieben Ins große Stammbuch der Natur, Als ihn der Geist getrieben.

Ja, günstig war die Stunde ihm, Der Gott war hochbegeistert; Er hat den spröden, rebellischen Stoff Ganz künstlerisch bemeistert.

Fürwahr, der Leib des Weibes ist Das Hohelied der Lieder; Gar wunderbare Strophen sind Die schlanken, weißen Glieder.

O welche göttliche Idee Ist dieser Hals, der blanke, Worauf sich wiegt der kleine Kopf, Der lockige Hauptgedanke!

Der Brüstchen Rosenknospen sind Epigrammatisch gefeilet; Unsäglich entzückend ist die Zäsur, Die streng den Busen teilet.

Den plastischen Schöpfer offenbart Der Hüften Parallele; Der Zwischensatz mit dem Feigenblatt Ist auch eine schöne Stelle.

Das ist kein abstraktes Begriffspoem! Das Lied hat Fleisch und Rippen, Hat Hand und Fuß; es lacht und küßt Mit schöngereimten Lippen.

Hier atmet wahre Poesie! Anmut in jeder Wendung! Und auf der Stirne trägt das Lied Den Stempel der Vollendung.

Lobsingen will ich dir, o Herr, Und dich im Staub anbeten! Wir sind nur Stümper gegen dich, Den himmlischen Poeten.

Versenken will ich mich, o Herr, In deines Liedes Prächten; Ich widme seinem Studium Den Tag mitsamt den Nächten.

Ja, Tag und Nacht studier ich dran, Will keine Zeit verlieren; Die Beine werden mir so dünn – Das kommt vom vielen Studieren.

Vị bạo chúa mỉm cười Biết rằng sau khi chết Quyền về tay người khác Mọi thứ sẽ đổi thay.

Người cũng như con ngựa Có cơ hội là làm Và nó sẽ giật phăng Cái ách treo trên cổ.

Khi chết, vua David Hỏi vua Solomon: ‘Con ơi, con nhớ không Vị tướng giỏi Gia-ốp?

Dũng cảm và gan góc Nhưng hắn làm ta buồn Đã từng rất nhiều năm Mà chưa trừng trị được.

Con thông minh, đạo đức Tin tưởng vào thánh thần Điều này sẽ giúp con Trừng trị tay Gia-ốp”. ___________ *Gia-ốp (Joab) – vị tướng của vua David trong Kinh Thánh.

Lächelnd scheidet der Despot, Denn er weiß, nach seinem Tod’ Wechselt Willkür nur die Hände, Und die Knechtschaft hat kein Ende.

Armes Volk! wie Pferd’ und Farrn Bleibt er angeschirrt am Karrn, Und der Nacken wird gebrochen, Der sich nicht bequemt den Jochen.

Sterbend spricht zu Salomo König David: A propos, Daß ich Joab dir empfehle, Einen meiner Generäle.

Dieser tapfre General Ist seit Jahren mir fatal, Doch ich wagte den Verhaßten Niemals ernstlich anzutasten.

Du, mein Sohn, bist fromm und klug, Gottesfürchtig, stark genug, Und es wird dir leicht gelingen, Jenen Joab umzubringen.

Một cô gái tóc đen Đưa bàn tay ve vuốt Mái đầu tôi đã bạc Nước mắt chảy ròng ròng.

Người tôi bị uốn cong Nụ hôn làm mù mắt Héo hon trong đầu óc Vì những nụ hôn nồng.

Thân tôi như xác chết Linh hồn bị cầm tù Trên bảo dưới không nghe Chẳng biết làm sao được.

Sự bất lực chết tiệt! Giống như một bầy ruồi Chỉ đành chịu đựng thôi Đành nguyện cầu và khóc.

Es hatte mein Haupt die schwarze Frau

Es hatte mein Haupt die schwarze Frau Zärtlich an’s Herz geschlossen; Ach! meine Haare wurden grau, Wo ihre Thränen geflossen.

Sie küßte mich lahm, sie küßte mich krank, Sie küßte mir blind die Augen; Das Mark aus meinem Rückgrat trank Ihr Mund mit wildem Saugen.

Mein Leib ist jetzt ein Leichnam, worin Der Geist ist eingekerkert – Manchmal wird ihm unwirsch zu Sinn, Er tobt und rast und berserkert.

Ohnmächtige Flüche! Dein schlimmster Fluch Wird keine Fliege tödten. Ertrage die Schickung, und versuch’ Gelinde zu flennen, zu beten.

Hình dạng của Nhân sư* Gán vào người phụ nữ Chỉ khác phần phụ là Thân hình con sư tử.

Bóng đen của cái chết Đây quả đúng Nhân sư Câu hỏi không giải ra Cha của chàng Ê-đíp**.

Cũng may, lời giải đáp Tôi không đủ sức làm Nếu không, cả thế gian Sẽ hoang tàn đổ nát. ___________ *Nhân sư (Sphinx) – là một nhân vật thần thoại biến thái động vật được thể hiện bằng một con sư tử nằm với một cái đầu người phụ nữ. Người Hy Lạp cổ cho là một quái vật nữ, “kẻ bóp cổ”, một nhân vật cổ của thần thoại Hy Lạp. **Ê-đíp (Oedipus) – là con trai của vua Laius và hoàng hậu Jocasta thành Thebes (Hy Lạp). Từ trước khi chàng ra đời, có một lời sấm cho rằng chàng là người sẽ giết vua cha và cưới mẹ chàng. Vì vậy, Laius lo sợ và ông đã bàn với hoàng hậu là phải giết Oedipus do sợ chàng sẽ giết cha, cưới mẹ. Cuối cùng, Oedipus lại được giấu đi, và được một người khác nuôi ở nơi khác. Khi chàng lớn lên, lúc đó xứ Thebes gặp một tai họa lớn, có một con Nhân sư quái ác thường ra một câu đố oái oăm, ai không trả lời được thì nó xé xác. Vua Laius nghe tin, ông đi tới trả lời câu hỏi của nó, ở đây Oedipus gặp Laius, họ tranh cãi về hướng đi rồi Oedipus giết Laius mà không biết đó là cha mình. Oedipus tiếp tục đi về Thebes và giải phóng vương quốc này bằng cách giải được câu đố của Nhân sư. Chàng được phong làm vua và cưới hoàng hậu Jocasta góa phụ mà không hề biết đó là mẹ mình. Ngày kia, có một hầu cận già của vua Laius đã cho biết câu chuyện. Khi đó hoàng hậu Jocasta tự tử, Oedipus lấy cái trâm trên đầu hoàng hậu mà chọc đui mắt của mình.

Die Gestalt der wahren Sphinx Weicht nicht ab von der des Weibes; Faselei ist jener Zusatz Des betatzten Löwenleibes.

Todesdunkel ist das Rätsel Dieser wahren Sphinx. Es hatte Kein so schweres zu erraten Frau Jokastens Sohn und Gatte.

Doch zum Glücke kennt sein eignes Rätsel nicht das Frauenzimmer; Spräch es aus das Lösungswort, Fiele diese Welt in Trümmer.